NĂM
ẤT TỴ KỂ CHUYỆN DANH NHÂN TUỔI TỴ CỦA VIỆT NAM.
Các bạn thân mến,
không khí đón xuân đã tràn khắp nơi nơi trên đất nước tươi đẹp của chúng ta. Nhân
dịp bước sang năm Ất Tỵ chi đội 4A1 mời các bạn cùng đón nghe một số câu chuyện
về danh nhân tuổi Tỵ nhé.
1. Bà Triệu Thị Trinh (225-248)
Đầu tiên
chúng ta cùng đến với Nữ anh hùng dân tộc sinh năm ất Tỵ đó là bà Triệu
Thị Trinh (225-248).
Bà là người
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô xâm lược. Bà còn được gọi là Triệu
Trinh Nương, Nhụy Kiều tướng quân hoặc Lệ Hải Bá Vương. Bà quê ở Cửu Chân, huyện
Nông Cống (nay thuộc vùng núi Quan Yên, miền Định Công, Thiệu Yên, tỉnh Thanh
Hóa). Bà giỏi võ nghệ, có chí lớn. Năm
19 tuổi, đáp lời người hỏi về việc chồng con, bà nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ, há chịu
cúi đầu là tỳ thiếp người ta ư?

Bà cùng
anh trai là
Triệu Quốc Đạt chiêu tập nghĩa quân, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô xâm lược để
cứu nước, cứu dân. Năm Mậu Thìn (248), cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Giữa lúc chiến
đấu ác liệt với quân Ngô, anh bà đột ngột lâm bệnh rồi mất, một mình bà tiếp tục
chỉ huy dân quân đánh đuổi giặc. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Triệu Thị Trinh rút
kiếm tự đâm cổ hy sinh khi mới 23 tuổi. Để tưởng nhớ
công ơn Bà Triệu, nhân dân đã xây lăng mộ Bà trên đỉnh núi Tùng, lập đền thờ và
dựng một ngôi đình lớn ở giữa làng Phú Điền, đồng thời tôn bà làm Thần hoàng
làng, quanh năm hương khói. Về sau, các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều cho tu sửa
đền miếu, ban sắc phong và quy định tế lễ với nghi thức quốc lễ.
- Năm 1979, đền thờ và lăng mộ Bà ở xã Triệu Lộc
được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
- Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp
hạng Di tích quốc gia đặc biệt cho Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật khu di
tích Bà Triệu.
- Năm 2022, Lễ hội Đền Bà Triệu được Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thuộc
loại hình lễ hội truyền thống.
- Lễ hội đền Bà Triệu được tổ chức từ ngày
20-23/2 âm lịch hằng năm.
2. Cao Bá Quát (1809-1854):
Danh sĩ Cao Bá Quát - sinh năm Kỷ Tỵ, là danh sĩ thời Tự Đức, tên tự là
Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Hiên, quê làng Phú Thị, huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).
Ông nổi tiếng thông minh, học giỏi.

Năm 1831, ông 22 tuổi, đậu á nguyên trường thi
Hà Nội. Nhưng thi Hội 2 phen đều bị đánh hỏng. Ông sáng tác nhiều thơ văn biểu
lộ tình yêu quê hương, dân nước và khí phách chống cường quyền, bất công, khinh
bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang. Năm 1841, quan đầu tỉnh Bắc
Ninh đề cử ông với triều đình, ông được triệu vào kinh và được sung chức Hành tẩu
Bộ Lễ. ít lâu sau, khi được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, ông và bạn đồng
sự là Phan Nhạ chữa một số bài thi văn hay nhưng phạm húy, toan cứu vớt người
tài. Việc bị phát giác, ông bị kết vào tội chết. Nhưng vua Thiệu Trị giảm tội
cho ông, chỉ cách chức và điều vào Đà Nẵng. Sau lấy cớ chăm sóc mẹ già, ông cáo
quan về sống ở quê nhà. Năm 1854, Cao Bá Quát làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại
triều đình. Việc khởi nghĩa ở Mỹ Lương thất bại, ông bị bắt rồi bị hành quyết
cùng với hai con là Cao Bá Phùng và Cao Bá Phong. Ông để lại cho đời bộ sách
Chu Thần thi tập. Thơ văn ông dù bằng chữ Hán hoặc quốc âm đều có giá trị nội
dung và nghệ thuật cao, đặc sắc là những bài ca trù.
3. Nhà soạn tuồng nổi tiếng Đào Tấn (1845-1907)
Sinh năm Ất Tỵ - Ông
tên thật là Đào Đặng Tấn, quê thôn Vĩnh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định. Năm Đinh Mão 1867, Đào Tấn là một trong số mười tám người đỗ cử nhân
khoa thi Hương tại trường thi Bình Định, được bổ làm quan. Ông từng giữ các chức
vụ Tổng đốc Nghệ An, Phủ Doãn Thừa Thiên, Thượng thư Bộ Công, rồi Hiệp tá
Đại học sĩ. Ông nổi tiếng thanh liêm, công bằng, giỏi văn chương. Chính ông đã sáng lập ra bộ môn Hát bội ở Bình Định và được suy tôn là
Hậu tổ của ngành Hát bội Việt Nam.
Năm 1904, vì chống tên việt gian Nguyễn Thân
ông bị cách chức rồi lui về quê nhà ở ẩn. Tại quê hương, ông có mở một trường dạy
kịch nghệ gọi là “Học bộ đình”. Đào Tấn mất năm 1907 (Đinh Mùi), 62 tuổi. Ông để
lại nhiều văn thơ và đặc biệt là nhiều tác phẩm tuồng có giá trị tư tưởng và
mang đậm chí khí của ông: Sống ở đời mà thấy chuyện ngang trái không trị thì
còn mặt mũi nào dạy dỗ thiên hạ trong tuồng.
4. Nhà văn Trần Hữu Trí
(1917-1951):
Nhà văn có bút danh là
Nam Cao. Ông sinh ngày 29-1 năm Đinh Tỵ tại làng Đại Hoàng, Cao Đà, huyện Nam
Song, nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông dạy
học tư, sáng tác văn học, nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết xã hội.
Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông
tham gia hoạt động tích cực ở quê. Năm 1946, ông nhập đoàn quân Nam tiến vào
Nam Trung bộ để kháng chiến chống Pháp. Sau đó, ông làm công tác tuyên truyền,
báo chí và văn nghệ ở Việt Bắc. Ông hy sinh ngày 30-11-1951 tại Ninh Bình.
Các tác phẩm chính của ông: Sống mòn, Lão Hạc,
Chí Phèo, Đời thừa, Đôi mắt...
Thật đáng tự hào khi nghe kể về các bậc
vĩ nhân của Việt Nam phải không các bạn. Chắc chắn sẽ còn rất nhiều danh nhân
khác nữa, nếu bạn biết hãy chia sẻ với chúng mình nhé.
Tết cổ truyền đang đến rất gần rồi,
chúng mình cũng rộn ràng với nhiều hoạt động thiết thực để chào mừng năm mới. Vẫn
là chăm học chăm làm; vẽ tranh trang trí lớp học theo chủ đề Mừng Đảng – Mừng
Xuân; kí cam kết không sử dụng, tàng trữ vật liệu nổ, không thả đèn trời, thực
hiện An toàn giao thông trong dịp Tết.
Sau đây là một vài hình ảnh minh họa các bạn cùng ngắm nhé.